MỤC LỤC
Fulltrip.vn – Vũ trụ khởi sinh từ khoảng 13,8 tỷ năm về trước sau một Vụ Nổ Lớn mà giới thiên văn học gọi là Big Bang. Trong vòng chưa đầy 1 tíc tắc, quả bóng vũ trụ từ kích thước ban đầu vô cùng nhỏ so với nguyên tử đã giãn nở thành một không gian có kích thước lên tới cả nghìn tỷ km. Khi mới hình thành, vũ trụ chỉ chứa năng lượng nóng và đặc. Theo thời gian, năng lượng này chuyển hóa dần thành vật chất – tiền đề của những nguyên tử tạo nên thiên hà, các hành tinh và ngôi sao như chúng ta thấy hôm nay.
Trái Đất, muôn loài sinh ra từ đâu?
Hệ Mặt Trời (hay Thái Dương Hệ) ra đời khi vũ trụ được 9 tuổi. Bản thân Trái Đất được cho là hình thành cùng lúc với Hệ Mặt Trời từ một đám mây đá, bụi và khí khổng lồ cách đây chừng 4,6 tỷ năm.
Trong Hệ Mặt Trời, Trái Đất là hành tinh nằm ở vị trí thứ ba tính từ Mặt trời trong số 8 hành tinh lớn xoay quanh Mặt Trời. Đây là hành tinh duy nhất có nước chảy trên bề mặt, đồng thời là hành tinh duy nhất được biết đến là có sự sống. Sự sống từ đâu mà ra?
Theo từ điển, sự sống là đặc điểm để phân biệt các thực thể có cơ chế sinh học với các vật thể không có cơ chế đó hoặc đã ngừng hoạt động. Sự sống tồn tại ở nhiều dạng như động thực vật, nguyên sinh vật, vi khuẩn, nấm hay vi trùng.
Bề mặt Trái Đất hàng triệu năm sau khi mới hình thành từng là một hỏa ngục do núi lửa ngày đêm phun trào và ảnh hưởng từ sự va chạm của các thiên thạch cùng các tiểu hành tinh. Khi ấy, Trái Đất không hề có sự sống. Nhưng bằng một sự thần kỳ nào đó, sự sống đã được bắt đầu cách đây khoảng 3,7 tỷ năm. Sự thần kỳ ấy theo khoa học giải thích xuất phát từ chính nguyên tố nước (H2O).
Từng có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của nước, song gần đây, nhóm các nhà khoa học từ Đại học Copenhagen (Đan Mạch) đã cho rằng Trái Đất không tự sản sinh ra nước mà chúng được đưa đến bởi các sao chổi băng giá sau những lần “ghé thăm” hành tinh này. Nước được cho là ngưng tụ dưới dạng lỏng cách đây 4,28 tỷ năm. Theo Cục Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS), nước bao phủ khoảng 71% bề mặt Trái đất. 96,5% trong số ấy đến từ các đại dương rộng lớn. Nước cũng tồn tại trong không khí dưới dạng hơi nước, tại các sông, hồ, trong các chỏm băng và dòng sông băng, trong lòng đất dưới dạng độ ẩm của đất và trong các tầng chứa nước. Thậm chí, nước cũng là thành phần bên trong các sinh vật sống.
Những giả thuyết đầu tiên và quan trọng về sự sống đến từ các nhà khoa học vĩ đại như Aristotle, Pasteur, Darwin, Lamarck, Oparin… Vào thế kỷ thứ 4 TCN, triết gia, nhà khoa học lỗi lạc người Hy Lạp Aristotle đã trình bày quan điểm rằng những vật thể sống phát sinh từ những vật thể không sống. Chẳng hạn như bọ chét và chuột phát sinh từ những đống rác cũ hay bột mì, những con giòi và ruồi sinh ra từ thịt thối. Sự sống, nói ngắn gọn hơn, là bắt nguồn từ sự phát triển tự nhiên.
Sang đầu thế kỷ 18, giới khoa học đã bác bỏ quan điểm của Aristotle, song phải tới những thí nghiệm của nhà hóa học, vi trùng học người Pháp Louis Pasteur vào năm 1862, người ta mới chắc chắn rằng một nơi đã được vô trùng thì sẽ vĩnh viễn không có bất cứ sinh vật nào phát sinh trong nó được nữa và sự sống chỉ có thể phát sinh từ những cơ thể sống phức tạp khác.
Cách đây gần 165 năm, nhân loại lần đầu tiên biết tới thuyết tiến hóa muôn loài của nhà nghiên cứu sinh học người Anh Charles Darwin. Theo Darwin, sự sống trên Trái đất khởi nguồn và tiến hóa từ một tổ tiên chung vào khoảng 3,8 tỷ năm trước. Sau đó qua chọn lọc tự nhiên, chúng tiến hóa thành các loài khác nhau như hiện nay. Trong quá trình này, những biến dị cá thể (nay gọi là biến dị di truyền) nhỏ nhặt, nếu làm tăng khả năng cạnh tranh, sinh tồn và sinh sản của cá thể thì sẽ được chọn lọc, trở thành đặc điểm thích nghi. Tuy nhiên, thuyết tiến hóa trên chưa giải thích được cơ chế di truyền, nguyên nhân phát sinh hiện tượng biến dị và chưa xác định được vai trò cách ly đối với việc hình thành loài mới.
Đến năm 1936, nhà hóa sinh người Nga Aleksandr Ivanovich Oparin, trong cuốn sách nổi tiếng của mình “The Origin of Life on Earth” (Tạm dịch là Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất), đã đưa ra giả thuyết cho rằng các hợp chất hữu cơ đơn giản đầu tiên trên Trái Đất có thể xuất hiện bằng con đường hóa tổng hợp từ các chất vô cơ nhờ nguồn năng lượng tự nhiên là tia tử ngoại, sấm sét và núi lửa. Bầu khí quyển nguyên thủy không có oxy, dưới tác dụng của các nguồn năng lượng tự nhiên, một số chất vô cơ kết hợp lại với nhau tạo nên chất hữu cơ đơn giản như axit amin, axit béo, nucleotit… rồi từ các đơn phân tạo thành các đại phân tử. Lý thuyết do Oparin thiết lập là một trong những lý thuyết được chấp nhận nhiều nhất trong cộng đồng khoa học. Tất cả những học thuyết hiện đại đều khởi đầu từ những luận điểm của ông.
Dù có vô số giả thuyết khác nhau, song nhìn chung, nguồn gốc của sự sống được định nghĩa là quá trình phát triển từ vật chất vô cơ qua sự tổng hợp chất để hình thành các đại phân tử protein và axit nucleic có khả năng tự nhân bản và tiến hóa. Xét toàn bộ quá trình tiến hóa thì nguồn gốc sự sống trên Trái đất trải qua 3 giai đoạn: Tiến hóa hóa học – Tiến hóa tiền sinh học – và Tiến hóa sinh học.
![](http://fulltrip.vn/wp-content/uploads/2017/04/nguon-goc-muon-loai.jpg)
Ảnh: Internet
Giai đoạn 1 – Tiến hóa hóa học
Giống với tên gọi, Tiến hóa hóa học là giai đoạn tiến hóa mà khi đó các hợp chất hữu cơ hình thành theo phương thức hóa học dưới tác động của các tác nhân tự nhiên như CO2, NH3, N2… Như ta đã biết, trong khí quyển nguyên thủy tồn tại các chất vô cơ như hơi nước, H2, CH4, NH3… Khi bị các nguồn năng lượng tự nhiên như ánh sáng mặt trời, phân rã phóng xạ, tia lửa điện, sấm sét… tác động, các chất vô cơ đã hình thành nên các hợp chất hữu cơ đơn giản. Thuyết này được thí nghiệm của Oparin và Handan năm 1920 hay Milo và Uray năm 1953 chứng minh và đặt tên là Thuyết ngẫu sinh về nguồn gốc sự sống.
Tiếp đó, các chất hữu cơ đơn giản hòa tan dưới nền đáy bùn sét, trong lòng đại dương nguyên thủy có thể được cô đọng lại và hình thành các hợp chất lớn phức tạp hơn như protein và axit nucleic. Có nhiều thí nghiệm đã chứng minh điều này, nổi bật nhất là thí nghiệm của Fox cùng các cộng sự năm 1950. Và bước cao cấp nhất trong giai đoạn tiến hóa hóa học là các đại phân tử tự phân đôi. Các nhà khoa học đặt giả thuyết rằng ARN là phân tử có khả năng tự nhân đôi mà không cần xúc tác enzym và còn có khả năng lưu trữ, truyền đạt thông tin di truyền.
Giai đoạn 2 – Tiến hóa tiền sinh học
Đây là lúc các tế bào sơ khai ra đời. Chọn lọc tự nhiên sẽ chọn ra và nhân rộng những tế bào có khả năng trao đổi chất và năng lượng với bên ngoài, phân chia và duy trì thành phần hóa học thích hợp. Sau khi các tế bào sơ khai vượt qua chọn lọc tự nhiên, chúng sẽ tiếp tục quá trình tiến hóa để hình thành nên các tế bào sống đầu tiên (hay còn gọi là sự sống).
Giai đoạn 3 – Tiến hóa sinh học
Sự tiến hóa của các loài sinh vật trên Trái Đất diễn ra trong giai đoạn này – giai đoạn Tiến hóa sinh học. Từ các tế bào nguyên thủy, dưới tác động của chọn lọc tự nhiên sẽ tiến hóa thành các cơ thể đơn bào đơn giản (cơ thể sống đầu tiên ở dạng sinh vật nhân sơ cách đây khoảng 3,5 tỷ năm). Sau đó hình thành cơ thể nhân thực, đầu tiên là đơn bào nhân thực (xuất hiện cách nay 1,5 – 1,7 tỷ năm), sau đó là đa bào nhân thực (xuất hiện cách đây khoảng 670 triệu năm). Sự tiến hóa sinh học đã diễn ra cho đến ngày nay, tạo ra toàn bộ sinh giới như hiện nay.
Ai đặt tên Earth cho Trái Đất này?
Như chúng ta biết, Hệ Mặt Trời có 8 hành tinh, xếp theo thứ tự khoảng cách từ gần nhất cho đến xa nhất so với mặt trời là Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương. 7 trong số 8 hành tinh trong Hệ Mặt Trời của chúng ta được đặt tên dựa theo các vị thần Hy Lạp hoặc La Mã cổ đại. Duy chỉ có Trái Đất là ngoại lệ, tên tiếng Anh của Trái Đất là Earth không liên quan đến một vị thần nào cả.
“Earth” có nguồn gốc từ thuật ngữ “eorþe” nghĩa là “đất”, “mặt đất”, “đất khô”, “đất ướt” trong tiếng Anh cổ.
Tuy nhiên, tiếng Anh cổ – tiền thân của tiếng Anh hiện đại – được sử dụng đến khoảng năm 1.150 CN, phát triển từ một hệ ngôn ngữ mẹ mà các học giả gọi là “Proto – Germanic”. Tiếng Đức ngày nay cũng là một phần của hệ ngôn ngữ trên. Do đó, “Earth” và “eorþe” có liên quan đến từ tiếng Đức hiện đại “Erde”. Trong tiếng Đức, từ “Erde” có nghĩa là Trái Đất, hành tinh xanh hoặc bụi bẩn. Xa xôi hơn, các nhà ngôn ngữ học tìm thấy nhiều bằng chứng nhắc tới Trái Đất trong tiếng Old Saxon là “ertha”, trong tiếng người Frisian cổ là “erthe”, tiếng Do Thái có “eretz” (ארץ) nhằm chỉ toàn bộ hành tinh chứ không chỉ mặt đất mà loài người bước đi.
Nhưng để trả lời câu hỏi tên gọi Trái Đất do người nào đặt và có tự bao giờ thì quả thật rất khó. Chỉ biết cái tên này có từ rất lâu về trước, có thể là từ thời nguyên thủy. Tổ tiên loài người quyết định đặt tên cho hành tinh này là Trái Đất vì cho rằng đất chính là nơi sự sống bắt đầu và kết thúc.
Cũng giống như nguồn gốc con người, nguồn gốc của Trái Đất và muôn loài tới nay vẫn còn là điều bí ẩn. Chúng ta cần tiếp tục khám phá và nghiên cứu để hiểu và tìm ra nguồn gốc cũng như ý nghĩa của sự sống từ một góc độ rộng lớn hơn./.